“Đủ điều kiện cắt giảm lãi suất từ tháng 9”
Do Chính phủ đã lên kế hoạch và quyết định thực hiện mức thấp hơn hai con số (xấp xỉ 9%) vào tháng 8/2012, mức lãi suất tiết kiệm hàng năm là 14% có thể đảm bảo cho các khách hàng nói trên có lãi và lãi suất là thực. Tích cực 5%. Trong trường hợp này, định vị lãi suất đầu vào của Ngân hàng Quốc gia là phù hợp.
Nhưng ngược lại, nếu lạm phát không như chính phủ mong đợi. Tính đến tháng 8 năm 2012, tỷ lệ này là 15% và tiền gửi của khách hàng là trừ 1%.
Chúng ta phải thừa nhận rằng, so với kỳ vọng lạm phát, người gửi tiết kiệm vẫn muốn có một mức lãi suất thực dương. Vì vậy, chính quyền phải tạo dựng được niềm tin trong nhân dân. (Riêng năm 2009, mục tiêu lạm phát là 7,5% đến 8%, nhưng đến cuối năm, lãi suất thực chỉ còn 6,5%).
Do đó, khi ấn định lãi suất, Ngân hàng Quốc gia phải dựa vào lãi suất dự kiến hoặc lãi suất cho vay. Lãi suất mục tiêu, và phải có quyết tâm lớn để đạt được mục tiêu lạm phát này. Tại thời điểm này, Việt Nam có thể ổn định lãi suất trong dài hạn và giúp các công ty lập kế hoạch đầu tư.
– Trần lãi suất huy động 14%, lâu nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều “vượt rào”. Vì vậy, trong thời gian tới, Ngân hàng Negara sẽ có những biện pháp gì để đảm bảo các ngân hàng từng “vượt rào” trước đây đều tuân thủ quy định? Đây là thời điểm mà Bank Negara phải nghiêm túc chấp hành và chuẩn bị sẵn sàng ứng phó kiên quyết với các hành vi vi phạm của các ngân hàng thương mại. Có thể kết hợp và hòa tan nếu cần thiết. Vì hệ thống ngân hàng đòi hỏi tính minh bạch cao. Vì đây là nơi lưu trữ một lượng tiền lớn nên không thể chấp nhận hành vi xâm phạm hệ thống.
Ngoài ra, Ngân hàng Quốc gia cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, sắp tới cần tập trung kiểm tra các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ mạnh, xử lý các sai phạm của ngân hàng một cách nghiêm túc, kịp thời để đảm bảo thực hiện chính sách tiền tệ và hoạt động . Ngân hàng hiệu quả dựa trên sự đồng thuận.